Nói riêng: Mạch phụ nữ cả 3 bộ điều hoà mà trong đó, mạch bộ Xích mạnh hơn bộ Thốn bộ Quan . Mạch tay phải lớn hơn mạch tay trái , thế là mức độ bình thường khi có kinh nguyệt dù tháng trồi , tháng sụt hay tháng nhiều tháng ít không chừng hay dù kinh có chậm hàng tháng mới hành cũng chưa phải là có bệnh về đường kinh nguyệt.
- Nếu mạch bộ Thốn , bộ Quan bình thường mà mạch Bộ Xích Tuyệt (hết) hay không tuyệt mà Nhược Tiểu thì hẳn là bụng dưới và Trường vị có khí tích , đau xóc lên tim , kinh nguyệt không thông mạch hư vi,
- Nếu mạch cả 3 bộ đều Phù hay đều Trầm mà trong khi Phù Trầm ấy đôi khi lại ngừng . Mạch bộ Thốn , bộ Quan Vi Sáp , mạch bộ Xích Vi Trì , đó là mạch 3 tháng mới hành kinh một lần. Hành kinh như vậy máu sẽ ít dần dần rồi đi đến bế tắc.
Gọi là “ kinh nguyệt bất thông ”
- Vi : Vị khí hư nhược
- Sáp : khí huyết hư hàn
- Trì : hàn lãnh
- Nếu mạch như trên mà lại hay bị hư thai - Tiểu sản hay sanh đẻ nhiều , máu khô cạn đi . Gọi là bệnh “ Huyết khô - Hoả cô Huyết”
- Nếu mạch bộ Quan Phục
- Mạch bộ Thốn Phù
- Mạch bộ Thốn tay trái Trầm Kết là mạch “mất kinh kỳ”.
Đó là bởi tâm tình uất ức không vui hoà làm cho Tỳ không tiêu hoá chất ăn để bồi dưỡng Phế kim, mà khí trệ không hành, để tăng trưởng Thân thuỷ mà huyết cạn khô. Kinh kỳ ấy lúc ban đầu tháng trước lẫn tháng sau rồi tháng có tháng không, không chừng, dần dần Tỳ Vị suy yếu thêm, biến sinh bệnh ỉa chảy, rồi sưng thủng cả người. Nếu không trị được biến sinh ra bệnh trưng hà, lao tái.
- Kinh kỳ bế tắc phát bệnh chia ra: “ Thuỷ phận ” và “ Huyết phận ”.
- Tam tiêu và Đởm mạch Trầm . Tâm Thận mạch Tế là kinh nguyệt không thông thì huyết ngưng lại , làm cho kinh nguyệt không hành gọi là “thuỷ phận” . Phát bệnh trước rồi mới bị tắc kinh, dễ trị .
* Thốn bộ mạch Trầm Sác
- Trầm = âm khí kết - Sác = dương khí thực
** Vị mạch Vi Huyền
- Vi = Vị khí nhược - Huyền = thiếu hơi thở
*** Thận mạch Trầm Hoạt
- Trầm = bệnh ở lý phận - Hoạt = thực nhiệt
Tất cả tranh giành nhau làm cho huyết kết , các đường kinh lạc không thông . Gọi là “ Huyết phận ”
MẤT KINH TRƯỚC RỒI MỚI PHÁT BỆNH : KHÓ TRỊ
- Vị mạch Phù Sáp
Phù = Khí trệ,
Sáp = Huyết hàn .
Làm cho đầy bụng trướng khí .
Khí đi lên ợ ngược , khí đi xuống lạnh bụng đau bụng.
- Thận mạch Phù Khẩn
Phù = sôi ruột đầy bụng
Khẩn = đau bụng . Thuộc loại bệnh Sán hà.
- Thận mạch Phù Động
Phù = khí hư,
Động = đau buốt . Thuộc loại bệnh băng huyết .
Bạch đái hay sa tử cung.
- Thận mạch Hoạt Sác : đái có khi rỉ rả theo ra hay bệnh ngứa trong âm hộ.
- Thận mạch Huyền : đau buốt trong âm hộ, lại thường có chứng lòi con trê Trường dĩnh .
II. THỜI KỲ MANG THAI
Xem mạch phụ nữ khi mới có thai, mạch bộ Thốn Vi Tiểu mà ngũ chí (ta để một ngón tay vào bộ Thốn của người nữ ấy, ta thấy mạch đi nhỏ bé, đấm nhẹ vào ngón tay ta luôn luôn mà có vẻ mau lẹ. Xem mạch linh động như vậy. Biết rằng Vi Tiểu mà ngũ chí, không phải tính hơi thở, không phải đếm mấy chí).
Còn hai bộ Quan và Xích, phù án hay trầm án đều bình (ngang bằng nhau) mà ấn mạnh tay xuống mạch vẫn còn đi, không tuyệt (không mất mạch), mạch ấy nếu đã tắt kinh mà không bệnh gì khác ngoài trạng thái thai nghén thì hẳn là có thai (mạch 2 tay đều thế).
Như vậy: Thốn mạch Vi Tiểu: khí suy; Quan mạch, Xích mạch bình bình không tuyệt: Huyết vượng. Khí suy, Huyết vượng: có thai.
Tuy sách dạy “xem mạch mới có thai” rõ ràng là như vậy, nhưng khi thực hành mới biêt xem mạch khi khoảng 1- 2 tháng rất khó xác định.
Những người nói rằng “xem mạch thai mới có mấy ngày cũng có thể biết được”, đó là những tay thần mạch, nhưng rất ít vị ta xem mạch tài giỏi, nhưng thần khí mạch thai không ứng hiện lúc ta xem thì làm sao mà biết để khoe hay khoe tài.
Xem mạch thai trong 1- 2 tháng, thật rất khó biết. Sách dạy: Sổ nguyệt hoài thai do vị giác.
*** Cho nên người xưa mới dạy ta phép cho uống chút thuốc để thử xem có thai thật hay không: gọi Nghiệm thai pháp (thử thai).
Vị Thuốc :
* - // - Xuyên Khung 4 gram, tán nhỏ và 1 nắm lá Ngải Cứu, nấu lấy nước mà uống, uống lúc đói. Uống vào lát sau trong bụng có chuyển động. Đó là cái thai. Nếu sau khi uống chừng 1 ngày mà trong bụng vẫn y nguyên không chuyển động, đó là kinh nguyệt bế tắc không phải có thai.
2.- // - Lấy 1 nắm lá ngải cứu, tẩm nước giấm sao khô, nấu lấy nước uống. Uống rồi một lát sau, trong bụng chuyển làm đau bụng, đó là có thai. Nếu không đau bụng, không phải có thai (nói đau bụng là chỉ hơi vận chuyển đau chút, chứ không phải đau dữ dội).

- Mạch tay trái xem hàng dọc (tung) từ trên đi xuống, từ dưới đi lên thẳng hàng đi lại thông hoạt không ngừng: cả Khí và Huyết đều thịnh sanh hai nam.
- Mạch tay phải xem ngang (hoành) đun đi đẩy lại không kẽ hở cách ngăn:
- Mạch tay trái xem ngược
(nghịch) mạch đi từ dưới tràn đầy lên trên mà đi lại thông hoạt:
Cả Khí và Huyết đều mạnh đến cao độ: sanh ba nam.
- Mạch tay phải xem xuôi
(thuận) mạch đi từ trên xuống dưới mà đi lại mau gấp.
Cả Khí và Huyết đều mạnh đến cao độ: sanh ba nữ.
Xem mạch thai theo Dịch lý (Trương Cảnh Nhạc dạy)
Quẻ khảm ở giữa đầy lại có hình chữ nhất là quẻ “Thiên nhất thuộc Dương”.Thai mạch Trầm thực, trong Trầm thực ấy có “ trung mãn” là nam thai.
Thai mạch Trầm thực, trong Trầm thực ấy có “ trung mãn” là nam thai.
Thai mạch Phù Hư, trong Phù Hư ấy có Trung Hư: nữ thai.

Quẻ ly ở giữa trống rỗng lại có hình chữ nhị là quẻ “Địa nhị thuộc Âm”.
Thai mạch Phù Hư, trong Phù Hư ấy có Trung Hư: nữ thai.
- Thai 3 tháng đã máy động, thai có Dương tính, Dương tính máy động sớm: nam thai (sự máy động đó theo lý tự nhiên, nếu động phòng mà máy động, không phải).
- Thai 5 tháng mới máy động, thai có âm tính, âm tính máy động muộn: nữ thai.
- Thai chủ về Huyết, nhưng thai máy động bởi Khí
Thai khí máy động , trong bụng người mẹ, nếu máy động phía
Tay trái :
Dương sanh nam
Tay phải :
âm sanh nữ
Xem hình thể bên ngoài để biết sanh nam hay nữ
- Khí thai 7 - 8 tháng hễ
Đầu vú bên trái có hạch sanh nam
Đầu vú bên phải có hạch sanh nữ (hạch tròn nho nhỏ, nắn không đau).
Người vợ đi xa xa đàng trước - Người chồng theo sau gọi giật lại
Theo lệ tự nhiên ... hễ : Người vợ quay lại
Quay đầu về bên trái : sanh nam
Quay đầu về bên phải : sanh nữ
Bụng bầu mang thai “ cưng cứng ” Nam thai
Vì nam thai ngồi ấp mặt bụng mẹ, lưng quay ra ngoài (lưng cứng).
Bụng bầu mang thai “ mềm mềm ” Nữ thai
Vì nữ thai ngồi theo chiều lưng mẹ, bụng quay ra ngoài (bụng mềm).
Xưa và nay mấy bà cụ thường nói: “Bụng gọn tròn sanh nam, bụng bè bè sanh nữ”. Có lẽ cũng nghĩa thế.
* Con trai ngồi quay lưng ra nước ối dồn vào trong nên thai gọn
* Con gái ngồi quay lưng vào trong nên nước ối dồn ra phía ngoài làm cho bụng chảy xệ xuống và bè ra

IV . THỜI KỲ SẮP SANH ( Lâm sản )
Mạch thai lúc chuyển bụng sắp sanh, thế nào mạch cũng có Ly Kinh.
Ly: rời bỏ, cách ly. Kinh: mức thường, tức là mạch cách ly đường mạch cũ, không theo mức độ bình thường.
a) Người ta thở ra, hít vào, nhịp độ điều hoà một ngày một đêm 13.500 tức. Trong khoảng cách ấy mạch đi 50 độ là một vòng, lại trở lại từ chỗ bắt đầu, cứ thế mãi mãi. Nay vì sắp sanh cái thai trụt xuống đè lên đường mạch Vị Kinh rời bỏ đường mạch liên tục thường xuyên không theo đúng vòng mạch trở lại từ lúc bắt đầu mà đi ra đường khác. Gọi “ly kinh”.
b) Mạch bình thường một hơi thở ra, hít vào: ngũ chí. Nay sắp sanh mạch đi một hơi thở: lục chí hay nhất chí, tức là quá mau hay quá chậm. Gọi “ly kinh”.
Như vậy, hễ thấy mạch ly kinh, biết rằng “sắp sanh” ( ta hiểu chữ “sắp sanh” này: sanh ngay lúc đó hay có chậm chăng cũng trong một hai giờ). Khi đã sanh rồi, mạch lại trở lại lúc bình thường như cũ.
- Lại nên biết rằng người sắp sanh bao giờ cũng đau bụng và đồng thời đau lưng. Nếu đau bụng mà không đau lưng , hay đau lưng mà không đau bụng là chưa sanh
Mạch lúc lên bàn đẻ.
Hễ Trầm Tế Hoạt dễ sanh.
Nếu Phù Đại khó sanh.
Trầm Tế Hoạt chính là mạch của Thận đã xuất hiện, nên dễ sanh, còn Phù Đại là Thận bị dương mạch khắc chế, nên khó sanh.
Dễ sanh còn phải nói làm chi.
Nhưng lúc sanh đẻ khó khăn phải thăm nom luôn mà cẩn thận.
Sanh đẻ khó khăn mà nóng người nặng mình và lên cơn nóng lạnh , hết cơn này lại đến cơn khác là điểm xấu.
Khi ấy phải xem ngay “ khí sắc ở mặt và lưỡi” của người đàn bà ấy có biến sắc không?
Nếu thấy mặt đỏ lưỡi xanh, phải tìm cách trục cái thai ra để cứu lấy mẹ. Nếu không trục cái thai ra được thì mạng người mẹ cũng không còn.
Nếu mặt xanh , lưỡi đen thì hư cả mẹ và con . Tại sao ? Bởi mặt là tinh hoa của Tâm , lưỡi là cuống của Tâm.
Mặt xanh , Can hết máu. Lưỡi đen Thận thuỷ tràn lên khắc chế Tâm hoả.
Mặt đỏ : Máu tim còn lưu thông, có thể cứu được người mẹ.
V . THỜI KỲ SAU KHI MỚI SANH ( Sản hậu )
Mạch sản phụ sau khi mới sanh
- Hoãn Hoạt : tốt nhất.
Trầm Tế cũng không sao.
- Nếu Thực Đại Huyền Lao : xấu.
Sáp Tật : Nguy . Tại sao ?
Bởi người mới sanh cần phải ăn được, tức là phải chú trọng vào cái Khí của Tỳ Vị. Hoãn Hoạt: Mạch Tỳ Vị điều hoà thì tốt.
- Trầm Tế : Mạch suy nhược. Người mới sanh Khí Huyết suy nhược cần bồi dưỡng để phục hồi, cho nên nói “cũng không sao!”.
- Thực Đại Huyền Lao : Can mộc vượng. Người mới sanh Tỳ Vị đã suy yếu lại bị Can mộc vượng khắc chế thì điều trị khó hồi phục, cho nên nói “xấu” (Lao: mạch rắn chắc như mạch Cách). Theo YHHĐ thì tăng huyết áp sau sinh ...
- Sáp Tật : Sáp là mất máu nhiều ,
Tật là hoả vượng . Người mới sanh đã mất máu nhiều lại hoả vượng , làm tiêu mất máu thêm , nên nói “nguy” (Tật : đi mau như Sác ).