.png)


Trong y học học thuyết âm dương quán triệt từ đầu cho đến cuối, từ đơn giản cho đến phức tạp, trong toàn bộ quá trình cấu tạo của cơ thể, trong sinh lý bệnh, sinh lý, chẩn đoán bệnh và các phường pháp chữa bệnh YHDT - Thuốc, châm cứu, xoa bóp, khí công….
Đối lập là sự mâu thuẫn, chế ước và đấu tranh giữa hai mặt của âm dương.
VD: Ngày và đêm, nước và lửa, hứng phấn và ức chế
ll - ÂM DƯƠNG HỖ CĂN
Hỗ căn là sự nương tựa lẫn nhau (để phát triển). Hai mặt âm và dương tuy đối lập nhưng phải nương tựa vào nhau mới tồn tại được, mới có ý nghĩa. Cả hai mặt đều là tích cực của một sự vật, không thể đơn độc phát sinh, phát triển.
Không có đồng hoá thì dị hoá cũng không thực hiện được, có số âm mới có số dương, hứng phấn và ức chế đều là quá trình tích cực của hoạt động vỏ não
Tiêu là sự mất đi, trưởng là sự phát triển. Quy luật này nói nên sự vận động không ngừng sự chuyển hóa lẫn nhau giữa âm và dương.
VD - Chuyển hoá khí hậu 4 mùa
Quy luật này có các trạng thái của vận động sau
- Âm tiêu dương trưởng (lạnh giảm và nóng tăng)
- Dương tiêu âm trưởng (nóng giảm và lạnh tăng)
- Dương cực sinh âm và âm cực sinh dương
- Hàn cực sinh nhiệt và nhiệt cực sinh hàn
[ Tại sao ăn uống toàn đồ mát mà càng ngày càng nóng ..
Chính là do Hàn cực sinh nhiệt ]
VD - trong quá trình phát triển của bệnh tật
Bệnh thuộc phần dương (sốt cao) có khi gây ảnh hưởng đến phần âm (mất nước), hoặc bệnh tại phần âm (mất nước, điện giải, mất máu) ảnh hưởng phần dương ( gây trụy mạch, hạ huyết áp, choáng gọi thoát dương)
Hai mặt âm dương tuy đối lập, vận động không ngừng nhưng luôn luôn lập lại được thế thăng bằng, quân bình giữa hai mặt. Thăng bằng của hai mặt âm dương nói nên mâu thuấn thống nhất, vận động và nương tựa lẫn nhau của vật chất.
- Tương đối: Lương thuộc âm đối lập Ôn thuộc dương
- Trên lâm sàng: Sốt là nhiệt thuộc dương nhưng nếu sốt cao thuộc lý dùng thuốc hàn, nếu sốt nhẹ thuộc biểu dùng thuốc mát (lương)
Âm và dương có quan hệ hỗ căn, nương tựa vào nhau cùng tồn tại, có khi xen kẽ vào nhau trong sự phát triển.

Nhưng từ 6 – 12h trưa là phần dương trong dương .
Từ 12 – 18h là phần âm trong dương
BAN ĐÊM THUỘC ÂM
Nhưng từ 18 – 24h là phần âm trong âm .
Từ 0 – 6h là phần dương trong âm
Trên lâm sàng thấy khi cho thuốc làm ra mồ hôi để hạ sốt thì tránh cho ra mồ hôi nhiều vì gây mất nước và điện giải
Triệu chứng bệnh thì có triệu chứng của hàn và của nhiệt
Hư và thực cùng xuất hiện
Về cấu trúc cơ thể thì tạng thuộc âm – phủ thuộc dương
Nhưng trong tạng và phủ lại có cả âm và dương
Như tạng can có can âm và can dương….

Nhưng có khi bản chất và hiện tượng không phù hợp với nhau, hiện tượng này gọi là sự “thật giả hay chân giả”, trên lâm sàng khi chẩn đoán bệnh cần phải xác định cho đúng bản chất để dùng thuốc chữa đùng nguyên nhân bệnh.
VD - Bệnh truyền nhiễm gây chứng sốt cao (chân nhiệt)
Nhưng do tình trạng nhiễm độc biến chứng gây trụy mạch ngoại biên làm cho chân tay lạnh, vã mồ hôi lạnh giả hàn),
Trường hợp này phải dùng thuốc mát để điều trị.
Bệnh ỉa chảy do lạnh (chân hàn), gây mát nước nhiều và mất điện giải gây nên tình trạng nhiễm độc thần kinh, xuất hiện các triệu chứng co giật, sốt (giả nhiệt), trường hợp này dùng thuốc ấm nóng để điều trị nguyên nhân bệnh.

TK thực vật ( ức chế) ……..
Phủ - kinh dương - khí ( hoạt động…) - phần lưng - phía trên -TK động vật……
TẠNG THUỘC ÂM
Do trong âm có dương và ngược lại nên ta có bảng sau
ra do sự mất thăng bằng về âm dương trong cơ thể được biểu hiện bằng thiên thắng và thiên suy

Dương thắng gây chứng nhiệt
[sốt, mạch nhanh, khát nước, phân táo, nước tiểu đỏ, mạch sác…]
Âm thắng gây chứng hàn [người lạnh, chân tay lạnh, mạch trầm, ỉa lỏng, nước tiểu trong….].

Các trường hợp lão suy, hội chứng hưng phấn TK giảm (ức chế)
Âm hư :
Mất nước điện giải, hội chứng ức chế TK giảm ( hứng phân)

Tính chất của bệnh còn chuyển hóa lẫn nhau giữa hai mặt âm dương:
Như bệnh tại phần dương ảnh hưởng dến phần âm (dương thắng tắc âm bệnh), VD như sốt cao kéo dài gây mất nước.
Như bệnh tại phần âm ảnh hưởng đến phần dương (âm thắng tắc dương bệnh), VD như ỉa chảy, nôn mửa kéo dài gây mất nước, điện giải làm nhiễm độc TK gây ra tr/ chứng sốt, co giật và có thể gây trụy mạch thoát dương
C . Sự mất thăng bằng âm dương
Gây ra các chứng bệnh (tr chứng) ở những vị trí khác nhau tùy theo vị trí đó thuộc về phần âm hay dương:
Dương thịnh sinh ngoại nhiệt
Sốt , người và tay chân nóng , vì phần dương thuộc biểu, thuộc nhiệt
Âm thịnh sinh nội hàn: ỉa chảy, người lạnh, nước tiểu trong dài vì phần âm thuộc lý thuộc hàn.
Âm hư sinh nội nhiệt
Như mất nước, tân dịch giảm gây chứng khát nước, họng khô, nước tiểu đỏ….
Dương hư sinh ngoại hàn
Sợ lạnh , chân tay lạnh vì phần dương khí bên ngoài bị giảm sút.


Vọng, văn, vấn thiết, để khai thác các triệu chứng thuộc hàn hay nhiệt, hư hay thực của các tạng phủ kinh lạc
B - Dựa vào 8 cương lĩnh
Để đánh giá vị trí nông sâu của bệnh, tính chất bệnh, trạng thái người bệnh và xu thế trung nhất của người bệnh (biểu- lý, hư – thực, hàn – nhiệt, âm – dương), trong đó âm và dương là hai cương lĩnh tổng quát nhất gọi là tổng cương; thường bệnh ở biểu là thực, nhiệt thuộc về dương; bệnh ở lý là hàn , là hư thuộc về âm.
Dựa vào tứ chẩn mục đích khai thác các triệu chứng bệnh và căn cứ vào bát cương để bệnh tật được quy thành các hội chứng thiên thắng hay thiên suy về âm dương của các tạng phủ kinh lạc…
Thuốc lạnh, mát (hàn lương) thuộc âm dùng chữa bệnh thuộc dương.
Thuốc nóng, ấm (nhiệt ôn) thuộc dương dùng để chữa bệnh hàn thuộc âm.

Bệnh nhiệt dùng châm
Hàn dùng cứu
Bệnh hư thì bổ
Thực thì tả.
Bệnh thuộc tạng (thuộc âm) dùng các huyệt du sau lưng( thuộc dương)
Bệnh thuộc phủ (thuộc dương) dùng các huyệt mộ ở vùng ngực, bụng (thuộc âm)
黄帝曰:阴阳者,天地之道也,万物之纲纪,变化之父母,生杀之本始,神明之府也。治病必求于本。故积阳为天,积阴为地。阴静阳躁,阳生阴长,阳杀阴藏。阳化气,阴成形。寒极生热,热极生寒。寒气生浊,热气生清。清气在下,则生飧泄;浊气在上,则生(月真)胀。此阴阳反作,病之逆从也。
故天有精,地有形,天有八纪,地有五里,故能为万物之父母。清阳上天,浊阴归地,是故天地之动静,神明为之纲纪,故能以生长收藏,终而复始。惟贤人上配天以养头,下象地以养足,中傍人事以养五藏。天气通于肺,地气通于嗌,风气通于肝,雷气通于心,谷气通于脾,雨气通于肾。六经为川,肠胃为海,九窍为水注之气。以天地为之阴阳,阳之汗,以天地之雨名之;阳之气,以天地之疾风名之。暴气象雷,逆气象阳。故治不法天之纪,不用地之理,则灾害至矣。
故邪风之至,疾如风雨,故善治者治皮毛,其次治肌肤,其次治筋脉,其次治六府,其次治五藏。治五藏者,半死半生也。故天之邪气,感则害人五藏;水谷之寒热,感则害于六府;地之湿气,感则害皮肉筋脉。
故善用针者,从阴引阳,从阳引阴,以右治左,以左治右,以我知彼,以表知里,以观过与不及之理,见微得过,用之不殆。善诊者,察色按脉,先别阴阳;审清浊,而知部分;视喘息,听音声,而知所苦;观权衡规矩,而知病所主。按尺寸,观浮沉滑涩,而知病所生;以治无过,以诊则不失矣。
故曰:病之始起也,可刺而已;其盛,可待衰而已。故因其轻而扬之,因其重而减之,因其衰而彰之。形不足者,温之以气;精不足者,补之以味。其高者,因而越之;其下者,引而竭之;中满者,写之于内;其有邪者,渍形以为汗;其在皮者,汗而发之;其慓悍者,按而收之;其实者,散而写之。审其阴阳,以别柔刚,阳病治阴,阴病治阳,定其血气,各守其乡,血实宜决之,气虚宜掣引之。
TÀI LIỆU THAM KHẢOBài giảng YHCT Y Hà Nội
Hoàng Đế Nội Kinh
Y học Căn Bản
Gs Bác sỹ Trần Văn Kỳ
